Điều tra dân số là gì? Điều tra dân số để làm gì?
Thống kê dân số hay kiểm kê dân số là quá trình thu thập thông tin về tất cả mọi bộ phận của một quần thể dân cư. Nó khác với việc lấy mẫu, dùng đó chỉ cần phải lấy thông tin về một số nhỏ của dân cư. Vì vậy thống kê dân số là một cách để tụ lại dữ liệu thống kê. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với công tác hoạch định chính sách và tổ chức bầu cử. Số liệu tổng điều tra được sử dụng để ước lượng dân số tại các thời điểm khác.
(Một hình ảnh chế của cư dân mạng)
Tại sao không tổng điều tra dân số mỗi năm một lần?
Tổng điều tra dân số và nhà ở rất tốn kém, phải chi hàng trăm tỷ đồng, phải huy động khoảng ba mươi vạn người tham gia trong khoảng thời gian nhiều tháng... Do vậy, về lý do kinh tế, không thể tiến hành tổng điều tra hàng năm được mà thường phải 5 năm hoặc 10 năm mới Tổng điều tra. Chọn chu kỳ 10 năm là phù hợp với điều kiện kinh tế của nước ta và thông lệ quốc tế.
Nội dung điều tra dân số ngày 1/4/2019 bao gồm những nội dung gì?
1. Thông tin chung về dân số;
2. Tình trạng di cư;
3. Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật;
4. Tình trạng khuyết tật;
5. Tình trạng hôn nhân;
6. Mức độ sinh, chết và phát triển dân số;
7. Tình hình đăng ký khai sinh của trẻ em;
8. Tình hình lao động - việc làm;
9. Thực trạng về nhà ở;
10. Điều kiện sinh hoạt cơ bản của hộ dân cư.
Bao giờ công bố thông tin cuộc điều tra dân số năm 2019?
Thời gian thu thập thông tin của cuộc Tổng điều tra là 25 ngày, bắt đầu từ ngày 01/4/2019. Kết quả sơ bộ được công bố vào tháng 7/2019, kết quả điều tra mẫu được công bố vào quý IV năm 2019, kết quả điều tra toàn bộ được công bố vào quý II năm 2020. Các báo cáo phân tích chuyên đề công bố vào quý IV năm 2020.
Đơn vị điều tra dân số là gì?
Đơn vị điều tra là "Hộ". Hộ bao gồm một người ăn ở riêng hay một nhóm người ở chung và ăn chung. Đối với hộ có từ hai người trở lên, có thể có hoặc không có quỹ thu chi chung. Các thành viên của hộ có thể có mối quan hệ hôn nhân, ruột thịt, họ hàng; hoặc kết hợp những người có quan hệ ruột thịt với những người không có quan hệ ruột thịt.
Những thông tin cá nhân mà người dân cung cấp cho cán bộ điều tra có được giữ kín không, có dùng cho các mục đích khác không?
Luật Thống kê quy định: Thông tin cá nhân được giữ kín; Thông tin cá nhân được dùng để tổng hợp chung vào dân số của xã/phường, huyện/quận, tỉnh/thành phố và cả nước, chứ không dùng cho bất kỳ mục đích nào khác.
Việt Nam đã từng có bao nhiêu lần điều tra dân số?
Trước khi thống nhất, tại miền Bắc Việt Nam đã thực hiện 2 đợt điều tra dân số, tiến hành vào thời điểm 01/3/1960 và 4/1974. Sau 1975, Việt Nam đã thực hiện 4 đợt tổng điều tra dân số vào tháng 4 các năm 1979, 1989, 1999, và 2009.
Dân số miền nam Việt Nam trước năm 1975, theo Viện Quốc gia Thống kê của Việt Nam Cộng hòa thì tính đến ngày 30/6/1968, dân số là 16.259.334 trong đó nông thôn là nơi cư trú của 71% dân số, dân thành thị là 29%, gia tăng tự nhiên là 2%-2,2% và lớp trẻ dưới 20 tuổi chiếm 57%. Trung bình thì mật độ là 95 người/cây số vuông nhưng vì phân phối không đều nên xét về mặt kinh tế thì duyên hải Trung phần là nơi nạn nhân mãn ở mức trầm trọng vì mỗi cây số vuông ruộng lúa (đất canh tác) có 1.258 người, so với Nam phần thì có 425 người mỗi cây số vuông ruộng lúa. Thành phố lớn nhất là thủ đô Sài Gòn với 1.736.880 dân, tính vùng phụ cận là 2.500.000.
Điều tra dân số đầu tiên trên thế giới?
Cổ La Mã làm thống kê dân số để tính thuế. Kinh Thánh có kể lại về một vài cuộc kiểm tra dân số. Sách Dân số miêu tả các cuộc kiểm tra dân số theo lệnh của Thiên Chúa với Moses khi ông dẫn dân Do Thái ra khỏi Ai Cập. Sau đó, vua David của Israel tổ chức một cuộc kiểm tra dân số người Israel (và người Giu-đa). Phúc âm Luca cũng có nhắc tới cuộc kiểm tra dân số La Mã do hoàng đế Augustus tổ chức vào lúc Chúa Giêsu ra đời. Thống kê dân số sớm nhất trong lịch sử diễn ra ở Trung Quốc thời Nhà Hán, vào mùa thu năm 2 CN. Những nhà học giả cho rằng nó đúng đắn lắm. Trong khi đó có 57,5 triệu người ở Trung Quốc, tức là dân số lớn nhất trên thế giới. Thống kê dân số sớm thứ hai trong lịch sử cũng diễn ra tại Trung Quốc vào thời Nhà Hán, vào năm 140 CN, chỉ được đếm một tí hơn 48 triệu người. Những nhà học giả cho rằng dân số này giảm xuống quá bởi vì nhiều người chuyển về miền Nam Trung Quốc ngày nay. Vào Thời Trung cổ, thống kê dân số nổi tiếng nhất là cuốn sách Xét xử , do William I của Anh ủy thác vào năm 1086 "để kiểm tra... cái gì hoặc bao nhiều mọi người chủ có về đất và thú vật nuôi, và giá trị của nó", để cho ông có thể thuế đúng kiểu những vùng đất mà ông vừa thắng. Vào năm 1183, Vương quốc Jerusalem của quân chữ thập làm thống kê dân số, có mục đích tính ra số người và số tiền đang có để chống xâm lược của Saladin, vua của Ai Cập và Syria.